Chuyển đổi số trong giáo dục đại học


Ngày 2/6 vừa qua, Trường Quốc tế – Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã tổ chức hội thảo với chủ đề “Thực trạng chuyển đổi số của một số trường đại học công lập Việt Nam”. Đây là hội thảo trong chuỗi hoạt động của đề tài “Trưởng thành số trong các trường đại học công lập tại Việt Nam” do Trường Quốc tế là đơn vị chủ trì dưới sự tài trợ của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Nafosted).

TS. Nghiêm Xuân Hòa đã trình bày kết quả nghiên cứu tổng quan của đề tài về chuyển đổi số trong giáo dục đại học.

Tham dự hội thảo có các giảng viên, nhà khoa học, chuyên gia các trường đại học, hiệp hội, cơ quan trên địa bàn Hà Nội. Tại hội thảo, các diễn giả đã trình bày các tham luận, báo cáo kết quả nghiên cứu của đề tài. TS. Nghiêm Xuân Hòa – thành viên nghiên cứu chính, đã trình bày tham luận với chủ đề “When universities go digital? Some bibliometric evidence”. Trong tham luận này, TS. Nghiêm Xuân Hòa đã trình bày kết quả nghiên cứu tổng quan của đề tài về chuyển đổi số (CĐS) trong giáo dục đại học. Sử dụng nguồn dữ liệu các công trình khoa học công bố trong giai đoạn từ 1971 đến 2023, nghiên cứu đã sử dụng phương pháp trắc lượng thư mục, phân tích xu hướng thay đổi của các chủ đề nghiên cứu về chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Những phát hiện chính của nghiên cứu cho thấy mặc dù CĐS là chủ đề đã được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về giáo dục đại học từ thập niên 70 của thế kỷ 20, nhưng phải đến sau khi đại dịch COVID-19 diễn ra thì chủ đề này mới thực sự trở thành chủ đề nóng và số lượng các nghiên cứu tăng đột biến. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra số lượng các công trình nghiên cứu về CĐS trong giáo dục đại học tại Việt Nam còn hạn chế nên đây là hướng nghiên cứu tiềm năng cho các nhà khoa học.

Người tham dự chăm chú lắng nghe các bài tham luận.

Bài tham luận thứ hai của TS. Vũ Thị Minh Hiền về chủ đề “Mức độ trưởng thành số của một số trường đại học công lập trên địa bàn Hà Nội”. Nghiên cứu làm rõ khái niệm trưởng thành số (TTS) là khả năng tổ chức tích hợp hiệu quả công nghệ số vào toàn bộ hoạt động, chiến lược và văn hóa. Cơ sở lý luận dựa trên các mô hình quốc tế như DMFHEI, MD4U và khung đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phương pháp khảo sát được thực hiện với 225 giảng viên và chuyên viên qua phiếu khảo sát trực tuyến với 40 chỉ số chia thành 7 lĩnh vực hoạt động. Kết quả cho thấy các trường đã có bước đầu triển khai chuyển đổi số ở mức độ từ cơ bản đến tương đối. Lĩnh vực “lập kế hoạch, lãnh đạo và quản trị” thể hiện sự chênh lệch rõ giữa các trường, trong khi “nghiên cứu khoa học” có mức độ đồng đều hơn. “Chuyển giao công nghệ và phục vụ xã hội” là lĩnh vực yếu nhất, cho thấy cần đầu tư thêm. Nguồn nhân lực hiện ở mức trung bình, phản ánh sự sẵn sàng nhất định nhưng còn hạn chế về kỹ năng số. Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến lược dài hạn và đầu tư vào con người để nâng cao TTS. Kết luận cho rằng các trường cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao năng lực nội bộ và tối ưu hóa ứng dụng công nghệ trong mọi hoạt động.

Người tham dự đóng góp ý kiến cho đề tài nghiên cứu. 

Cuối cùng, TS. Trần Thị Thu Hải trình bày tham luận “Đo lường mức độ trưởng thành số của các trường đại học công lập Việt Nam: Kết quả nghiên cứu sơ bộ”. Đây là một nội dung quan trọng trong kết quả của đề tài về mức độ trưởng thành số của các trường đại học công lập Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số (CĐS) ngày càng cấp thiết. Các khung đánh giá quốc tế như DigCompOrg, DMFHEI và SELFIE được giới thiệu với những ưu điểm và hạn chế riêng, đặc biệt là về tính toàn diện và khả năng triển khai. Bộ chỉ số do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2022 cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá CĐS ở hai lĩnh vực: đào tạo và quản trị. Từ đó, mô hình ViDiM được xây dựng, kết hợp cả khung quốc tế và chỉ số trong nước, tạo nên công cụ đánh giá vừa toàn diện vừa phù hợp với bối cảnh Việt Nam. ViDiM sử dụng thang đo Likert để xác định 5 cấp độ trưởng thành số từ cơ bản đến trưởng thành. Khảo sát thực hiện tại 20 trường đại học với 255 người tham gia cho thấy đa số các trường đang ở mức “Kích hoạt” và “Tự tin”, trong khi chỉ một trường đạt mức “Trưởng thành”. Các trường đại học khối ngành kỹ thuật có mức trưởng thành số cao hơn nhờ đầu tư tốt hơn vào hạ tầng và nhu cầu công nghệ cao. Ngược lại, các khía cạnh như nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng còn ở mức thấp do thiếu đầu tư và nguồn lực. Nghiên cứu kết luận cần có chiến lược dài hạn, tăng cường đầu tư và đào tạo nhân lực để nâng cao mức độ trưởng thành số trong toàn bộ hệ thống giáo dục đại học.

Người tham dự hội thảo đã sôi nổi thảo luận về các kết quả nghiên cứu và gợi mở các vấn đề cần đào sâu nghiên cứu của đề tài. Với những ý kiến đánh giá tích cực của người tham dự, nhóm nghiên cứu sẽ tiếp thu để hoàn thiện nội dung nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài.

Nguyễn Phương Mai

Khoa Kinh tế và Quản lý